Tổng quan về triệu chứng đường tiểu dưới ở nam giới (LUTS)
Tác giảNguyễn Xuân Đức Hoàng

Các rối loạn tiểu tiện như tiểu khó, tiểu rặn, tiểu đêm, bí tiểu, tiểu buốt, tiểu rắt… là các rối loạn rất thường gặp trong cộng đồng. Các rối loạn này có liên quan nhiều với tuổi tác nên số người mắc sẽ không ngừng tăng lên trong những thập kỷ tới do xu hướng già hóa dân số ở tất cả các quốc gia trên thế giới.

1. Khái niệm về triệu chứng đường tiểu dưới

   Trước đây, những rối loạn tiểu tiện như tiểu khó, tiểu rặn, tiểu đêm, bí tiểu, tiểu buốt, tiểu rắt…  thường được cho là các bệnh lý đặc trưng của nam giới lớn tuổi, có liên quan mật thiết đến tuyến tiền liệt. Do vậy, thuật ngữ “hội chứng tắc nghẽn tuyến tiền liệt” để chỉ những triệu chứng này đã được sử dụng phổ biến cho đến tận những năm cuối của thế kỷ 20. Bệnh là hậu quả của việc tăng sản lành tính của tuyến, gây nên các cản trở ngoại biên trên đường tiểu.

   Trong những năm gần đây người ta quan tâm nhiều đến khía cạnh triệu chứng chủ quan và những phàn nàn của người bệnh chứ ít quan tâm đến khía cạnh sinh lý bệnh của bệnh. Chính vì vậy, người ta đưa ra khái niệm triệu chứng đường tiểu dưới (Lower urinary tract symptoms - LUTS). LUTS ra đời để thay thế cho thuật ngữ tắc nghẽn tuyến tiền liệt (prostatism) trước đây. Thuật ngữ này được coi là một thuật ngữ bao trùm mà không phân biệt giới tính, độ tuổi, và không ám chỉ đến một nguyên nhân cụ thể. Đối với mỗi triệu chứng đơn lẻ, hai khía cạnh quan trọng được quan tâm đó là mức độ trầm trọng của triệu chứng và mức độ phiền phức của triệu chứng đối với người bệnh.

   Rối loạn chức năng của đường tiết niệu dưới gây ra các triệu chứng đường tiểu dưới (LUTS) khác nhau. Tập hợp các triệu chứng này gọi hội chứng đường tiểu dưới (hội chứng LUT). Hội chứng LUT được chia thành ba nhóm triệu chứng lớn là các triệu chứng chứa đựng nước tiểu (filling/storage symptoms), các triệu chứng tống xuất nước tiểu (emptying/voiding symptoms) các triệu chứng sau tiểu (post-void symptoms).

2. Dịch tễ học triệu chứng đường tiểu dưới

   Hội chứng LUT là tình trạng phổ biến ở nam giới trung niên và lớn tuổi. Theo nghiên cứu MSAM - 7 được tiến hành tại 6 nước châu Âu và Mỹ cho thấy tỷ lệ lưu hành của LUTS ở nam giới từ 50 tuổi trở lên là khoảng 31%. Một khảo sát sau đó (EpiLUTS) trên 30.000 nam giới từ 40 - 80 tuổi cũng cho thấy tỷ lệ LUTS khoảng 28%. Số liệu thống kê tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội trên 28.963 người bệnh từ 18 tuổi trở lên đến khám tại phòng khám Nam khoa cho thấy tỷ lệ LUTS nói chung là 10,78%, riêng ở độ tuổi từ 50 trở lên thì tỷ lệ này là 25,4%. Tỷ lệ này tương đồng với một nghiên cứu tại Nhật Bản là 26,8%. Tuổi càng cao thì tỷ lệ LUTS càng lớn. Trong nghiên cứu MSAM - 7, tỷ lệ LUTS ở độ tuổi 50 tuổi chiếm khoảng 22%, ở độ tuổi 60 chiếm 33%, và ở độ tuổi 70 chiếm khoảng 45%.

3. Nguyên nhân triệu chứng đường tiểu dưới

   Trước đây, hội chứng đường tiểu dưới thường được cho là có liên quan đến tắc nghẽn cổ bàng quang (Bladder outlet obstruction - BOO) là hậu quả của quá trình tăng sản lành tính tuyến tiền liệt ở nam giới lớn tuổi. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây cho thấy LUTS không chỉ liên quan đến tuyến tiền liệt còn liên quan đến bàng quang, niệu đạo, và nhiều tình trạng không liên quan đến tiết niệu như rối loạn nội tiết, đa niệu về đêm, nhiễm trùng. Các nguyên nhân từ bàng quang như: bàng quang tăng hoạt (OAB), bàng quang giảm hoạt, bàng quang tăng cảm giác, bàng quang thần kinh. Các nguyên nhân từ niệu đạo như hẹp niệu đạo, sỏi niệu đạo… Các nguyên nhân của LUTS có thể chia thành ba nhóm như sau: Các nguyên nhân đa niệu (polyuria), bệnh lý dòng tiểu (outflow tract pathology) và rối loạn chức năng bàng quang (bladder dysfunction).

Các nguyên nhân cụ thể gây hội chứng đường tiểu dưới (LUTS) theo EAU - 2021

4. Liên quan giữa triệu chứng đường tiểu dưới và các bệnh lý tim mạch chuyển hóa

4.1. Liên quan giữa LUTS hội chứng chuyển hóa

   Kết quả các nghiên cứu gần đây cho thấy các bệnh lý liên quan đến tuổi tác như tiểu đường type 2, các bệnh lý tim mạch, suy sinh dục và hội chứng chuyển hóa (MetS) đều có ảnh hưởng đến hoạt động chức năng của đơn vị đường tiểu dưới. Trong đó, các thành phần của hội chứng chuyển hóa như: tăng triglycerid máu, tăng đường huyết lúc đói và/hoặc tiểu tháo đường type 2 có liên quan đáng kể với nguy cơ mắc LUTS.

   Mặc chế chính xác mối liên quan giữa MetS LUTS vẫn chưa được hiểu biết tường tận, người ta cho rằng các thành phần của MetS thúc đẩy quá trình rối loạn chức năng cơ trơn và tế bào nội mô từ đó dẫn đến LUTS/BPH ở nam giới. Ngoài ra, MetS còn thúc đẩy một tình trạng viêm hệ thống làm cho các quá trình tái cấu trúc mô và phát triển quá mức của mô tuyến tiền liệt do viêm mạn tính diễn ra nhanh hơn, từ đó dẫn đến tăng sản lành tính tuyến tiền liệt. Thêm vào đó, các mô mỡ tạng có khả năng bài tiết ra các chất tiền viêm hoạt tính sinh học, các tiền chất này khả năng kích thích và thúc đẩy quá trình viêm mạn tính mức độ thấp. Khi có sự suy giảm estrogen và thiếu hụt androgen phối hợp, quá trình viêm này sẽ được khuếch đại để trở thành mức độ viêm mạnh mẽ hơn khiến cho cho LUTS tiến triển trầm trọng hơn.

   LUTS làm suy giảm đáng kể chất lượng cuộc sống của người bệnh, việc thay đổi lối sống bao gồm cả chế độ ăn, chế độ hoạt động thể lực và điều trị MetS cũng như các tình trạng bệnh lý liên quan đến MetS là một trong các biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn hoặc giảm thiểu mức độ tiến triển nặng của LUTS/ BPH.

4.2. Liên quan giữa LUTS các biến cố tim mạch nặng

   Mối liên quan giữa các yếu tố chuyển hóa, hội chứng chuyển hóa (MetS) với LUTS ở nam giới đã được xác lập. Tương tự như vậy, mối liên quan giữa các yếu tố này với các biến cố tim mạch nặng (MACE) như cơn đau thắt ngực, nhồi máu tim cấp, thiếu máu cơ tim cục bộ mạn tính khác, thiếu máu não thoáng qua hoặc tai biến mạch máu não… cũng được ghi nhận từ lâu. Trong một phân tích tổng hợp đánh giá mối liên quan gữa MetS các bệnh tim mạch cho thấy MetS đã làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, nhồi máu cơ tim và và đột quỵ lên gấp 2 lần, và làm gia tăng tỷ lệ tử vong nói chung của tất cả các nguyên nhân lên 1,5 lần. Như vậy, giữa LUTS và các biến cố tim mạch nặng (MACE) dường như có chung một yếu tố nguy cơ mắt xích quan trọng là MetS.

   Trong nghiên cứu MMAS trên một quần thể gồm 1.709 nam giới trong độ tuổi từ 40 - 70 tuổi, được chọn ngẫu nhiên đã chứng minh rằng bệnh mạch vành là một yếu tố độc lập làm tăng nguy cơ tiến tiển của phì đài tuyến tiền liệt trong 9 năm theo dõi. Trong một nghiên cứu theo dõi dọc gần đây về mối quan hệ giữa LUTS với MACE trên 2.092 nam giới 47 tuổi với thời gian theo dõi dài 6 năm. Wehrberger và cộng sự đã ghi nhận nguy cơ mắc CVD và đột quỵ tăng cao ở những nam giới có LUTS ở mức độ nặng (điểm triệu chứng tuyến tiền liệt quốc tế - IPSS > 20) với OR lần lượt là 1,28 và 1,66.

   Do vậy, trong thực hành lâm sàng cần thăm khám toàn diện cho tất cả những người bệnh nam lớn tuổi có LUTS để phát hiện rối loạn chuyển hóa dự phòng các biến cố tim mạch nặng, đặc biệt là các người bệnh trước phẫu thuật.

Xem thêm: Triệu chứng đường tiểu dưới: Chẩn đoán lâm sàng - cận lâm sàng

Liên hệ với tác giả:

  • Zalo
  • Phone

Bài viết liên quan

Đăng kí khám

Đặt hẹn ngay để nhận tư vấn và xếp lịch khám kịp thời

Gửi yêu cầu